Trong năm 2021, kinh tế Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn khi dịch COVID-19 bùng phát mạnh trên phạm vi toàn quốc. Bước sang năm 2022, tăng trưởng kinh tế sẽ có nhiều cơ hội nhưng cũng còn nhiều thách thức do tình hình dịch bệnh vẫn khá phức tạp.
PV của Tạp chí Thời Đại có buổi phỏng vấn với bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê để trao đổi cụ thể hơn.
Có thách thức, nhưng cũng nhiều cơ hội
Thưa Tổng cục trưởng, nhiều dự báo cho rằng, tăng trưởng kinh tế năm 2022 của Thế giới sẽ thấp hơn năm 2021. Trong nước, sức chống chịu và nguồn lực của doanh nghiệp và người dân đã giảm. Do đó, theo Tổng cục trưởng, động lực nào để thực hiện thành công mục tiêu tăng trưởng kinh tế của năm 2022 đã được Quốc hội thông qua?
Bà Nguyễn Thị Hương: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2022 từ 6,0-6,5% do Quốc hội đặt ra là khá thách thức trong bối cảnh nước ta chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 kể từ đầu năm 2020 đến nay.
Trong năm 2022, dự báo tình hình dịch bệnh có thể chưa chấm dứt hoàn toàn do sự xuất hiện khó lường của các biến chủng mới như Omicron, những ngành dịch vụ thị trường chưa thể khôi phục hoàn toàn nhưng có thể tiến triển tốt hơn năm 2021 nhờ việc thích ứng tốt hơn trong điều kiện bình thường mới.
Do vậy, mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2022 có thể thực hiện thành công nhờ dựa vào các động lực sau:
Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục kế thừa những kết quả đạt được từ việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020; kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản ổn định, tạo tiền đề để điều hành chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả.
Thứ hai, các gói chính sách tài chính và thuế khóa trực tiếp và quyết liệt là cơ hội cho các doanh nghiệp, người dân được tiếp cận nhanh chóng ổn định, phục hồi sản xuất.
Thứ ba, cầu nội địa phục hồi và gia tăng dần do nước ta đã đạt tỷ lệ tiêm phòng đầy đủ 2 mũi tương đối, đảm bảo người tiêu dùng có thể tham gia thị trường mua sắm an toàn hơn. Ngoài ra, triển vọng về tiêu dùng trong nước được dự báo sẽ sáng sủa hơn, được hỗ trợ bởi sự gia tăng thu nhập, mở rộng việc làm khi người lao động trở lại các nhà máy, khu công nghiệp sau thời gian trở về địa phương tạm lánh dịch bệnh;
Thứ tư, lạm phát được dự báo sẽ không tăng cao mặc dù đã có một số hàng hóa, nguyên vật liệu tăng giá nhưng vẫn trong kiểm soát nên không gây áp lực lên hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Thứ năm, những sửa đổi gần đây trong Luật Đầu tư công sẽ giúp cải thiện hoạt động đầu tư công bằng cách đẩy nhanh các quy trình, đơn giản hóa thủ tục, và tạo điều kiện để giải ngân vốn đầu tư công nhanh hơn.
Thứ sáu, xu hướng phát triển và mở rộng đầu tư vào các ngành dịch vụ y tế, giáo dục chất lượng cao sẽ nâng mức đóng góp của ngành y, tế, giáo dục nói riêng và ngành dịch vụ thị trường nói chung trong tăng trưởng của toàn nền kinh tế.
Thứ bảy, trong bối cảnh dịch bệnh, nhiều ngành, lĩnh vực chuyển hướng sang ứng dụng công nghệ thông tin, tận dụng thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0, từ đó tạo ra các hình thức hoạt động sản xuất kinh doanh mới tích hợp công nghệ sẽ cho năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn.
Thứ tám, cải cách về thể chế của nền kinh tế sẽ phát huy hiệu quả; các gói kích thích kinh tế, hỗ trợ khu vực doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh sẽ giúp khu vực này dần đi vào ổn định và thích nghi tốt trong trạng thái bình thường mới.
Thứ chín, Hiệp định thương mại tự do với Liên minh Châu Âu gần đây và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương mở ra khả năng tiếp cận thị trường cho các hoạt động thương mại và đầu tư lớn hơn.
Cuối cùng, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được dự báo sẽ duy trì và có thể mở rộng hơn 2 năm 2020-2021 khi Việt Nam mở cửa trở lại các đường bay thương mại quốc tế trở lại trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, một số nhà máy sản xuất lớn về may mặc, đồ uống, da giày,... mới được đưa vào vận hành tại các tỉnh Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Nam Định, Hưng Yên, Quảng Ngãi sẽ có đáng góp không nhỏ cho nền kinh tế Việt Nam.
Để tăng trưởng nhanh, cần thực hiện ngay các giải pháp cơ bản
Vậy theo Tổng cục Trưởng, để nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng trong năm 2022, chúng ta cần thực hiện ngay những việc gì?
Bà Nguyễn Thị Hương: Để đạt được mục tiêu tăng trưởng do Quốc hội đề ra, cần thực hiện ngay các giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục kiểm soát được dịch bệnh. Cụ thể, cần nghiêm túc thực hiện các quy định phòng chống dịch bệnh của Bộ Y tế. Chỉ khi Việt Nam kiểm soát tốt được dịch bệnh thì mới có thể hạn chế tối đa thiệt hại, giảm chi phí khắc phục và tiến hành khôi phục các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh chịu tác động trực tiếp của dịch COVID-19.
Thứ hai, khai thác thị trường trong nước. Theo đó, thị trường nội địa vẫn sẽ là “điểm tựa” an toàn để các doanh nghiệp Việt Nam duy trì hoạt động, chuẩn bị điều kiện tốt để tham gia khi thị trường thế giới ổn định trở lại. Với quy mô dân số gần 100 triệu dân là thị trường không nhỏ để các doanh nghiệp Việt Nam khai thác. Nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh có sức cầu trong dân lớn cần được khai thác mạnh mẽ hơn trong thời gian tới như hàng tiêu dùng thiết yếu, đồ gia dụng; thay thế nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu; đa dạng hóa các loại sản phẩm dịch vụ (y tế, giáo dục, thương mại,…) dựa trên ứng dụng tối đa công nghệ thông tin; chuẩn bị nhân lực và hạ tầng cho hoạt động du lịch, vận tải ...
Ngoài ra, để có thể kích thích tiêu dùng, vực dậy sản xuất cũng cần phải tập trung vào đầu tư công, phát triển một số ngành mũi nhọn, tạo nên việc làm kéo theo một số ngành liên quan, giúp nền sản xuất trong nước phát triển. Do ảnh hưởng tiêu cực của dịch COVID-19 tới mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, đầu tư của toàn nền kinh tế sẽ giảm trong ngắn hạn và dài hạn, đặc biệt là đầu tư của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực ngoài nhà nước. Vốn đầu tư công sẽ là động lực lớn, góp phần thúc đẩy, thu hút và lan tỏa đầu tư, tạo động lực, nền tảng cho phát triển và dịch chuyển cơ cấu kinh tế trong thời gian tới.
Thứ ba, triển khai gói kích thích kinh tế, hỗ trợ sản xuất kinh doanh và việc làm. Qua đó, cần triển khai sớm và hiệu quả gói hỗ trợ và kích thích kinh tế cho khu vực doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh và người lao động bị ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch bệnh do phải tạm dừng, tạm hoãn hoạt động trong thời gian giãn cách vừa qua. Các chính sách này sẽ là bệ đỡ hỗ trợ các hoạt động sản xuất kinh doanh hồi phục nhanh hơn, ổn định, từ đó tạo động lực cho nền kinh tế dần ổn định và phát triển đi lên.
Thứ tư, khai thác và thực hiện hiệu quả hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới. Được biết, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (Hiệp định EVFTA) được kỳ vọng đem đến nhiều cơ hội thuận lợi, là điểm nhấn quan trọng của nền kinh tế Việt Nam trong tình hình mới, có khả năng tạo khởi sắc ấn tượng trong quan hệ kinh tế - thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu nói riêng, cũng như thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam nói chung. Ngoài ra, thông qua Hiệp định EVFTA, Việt Nam sẽ khẳng định được vai trò và vị thế địa - chính trị quan trọng của mình trong khu vực, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Các Bộ, ngành cần phối hợp chặt chẽ để đẩy mạnh công tác truyền thông về EVFTA, để tất cả các doanh nghiệp Việt Nam biết, hiểu đúng, hiểu rõ và áp dụng được Hiệp định này vào đời sống sản xuất, kinh doanh. Trong tình hình mới, cần kết hợp những hình thức truyền thông truyền thống trước đây với các hình thức tuyên truyền mới, sáng tạo hơn trong khâu tổ chức như thông qua các khóa tập huấn trực tuyến, hội nghị trực tuyến, ứng dụng công nghệ vào các hoạt động phổ biến, tuyên truyền để những thông tin về Hiệp định này trở nên trực quan, hấp dẫn hơn, cũng như tiếp cận được nhiều doanh nghiệp hơn, lan tỏa sâu và rộng hơn.
Về phía doanh nghiệp, cần chủ động hơn nữa trong việc tìm hiểu về Hiệp định EVFTA; tăng cường hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, thay đổi tư duy quản lý và kinh doanh, liên kết tạo thành chuỗi sản xuất, kinh doanh để có thể tụ hội đủ nguồn lực đối mặt với áp lực cạnh tranh. Doanh nghiệp cũng cần hết sức lưu ý những cam kết về phát triển bền vững như các nguyên tắc, tiêu chuẩn về lao động, về bảo vệ môi trường do đây là những nội dung mà phía EU đặc biệt quan tâm.
Một điều quan trọng nữa là việc tháo gỡ khó khăn cho khu vực doanh nghiệp, hộ kinh doanh và người lao động bị ảnh hưởng do dịch COVID-19, vậy Tổng cục trưởng đánh giá thế nào về hiệu quả của các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các đối tượng này trong thời gian qua?
Bà Nguyễn Thị Hương: Trước ảnh hưởng của dịch bệnh, để tháo gỡ khó khăn cho khu vực doanh nghiệp, hộ kinh doanh và người lao động, Chính phủ đã ban hành nhiều giải pháp để hỗ trợ. Các Nghị quyết, nghị định, thông tư về tháo gỡ khó khăn do khu vực doanh nghiệp, người sử dụng lao động, người sử dụng lao động là quyết sách kịp thời, đúng lúc, có tác dụng hỗ trợ cho người lao động và doanh nghiệp đang gặp khó khăn trước đại dịch:
Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ về Quy định tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19” được triển khai thống nhất trên phạm vi toàn quốc đã góp phần quan trọng trong việc khôi phục sản xuất và thúc đẩy thị trường. Sau hơn hai tháng thực hiện Nghị quyết 128/NQ-CP, tình hình kinh tế - xã hội dần được khôi phục, từng bước tạo nên sự khởi sắc rõ nét của “bức tranh về doanh nghiệp” trong những tháng cuối năm 2021. Việc nới lỏng các biện pháp giãn cách xã hội đã có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp sớm trở lại hoạt động bình thường, đảm bảo vận tải lưu thông hàng hóa diễn ra bình thường, không làm đứt gãy chuỗi sản xuất cũng như cung ứng nguyên vật liệu đầu vào cho doanh nghiệp.
Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tính đến ngày 15/12/2021 tổng kinh phí từ nguồn ngân sách Trung ương đã hỗ trợ theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021; Nghị quyết số 86/NQ-CP ngày 06/8/2021 của Chính phủ và Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 08/10/2021; Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ là gần 31,4 nghìn tỷ đồng cho 28,8 triệu lượt người và 337,9 nghìn đơn vị sử dụng lao động/hộ kinh doanh. Bên cạnh đó, theo Nghị quyết 116/NQ-CP ngày 24/9/2021 của Chính phủ đã hỗ trợ 37,5 nghìn tỷ đồng cho gần 22,3 triệu lượt người và 363,6 nghìn đơn vị sử dụng lao động/hộ kinh doanh.
Bên cạnh đó, việc mở rộng phạm vi, đối tượng được hỗ trợ của các chính sách không chỉ thể hiện sự bám sát thực tiễn để đưa ra gói hỗ trợ đồng bộ của Chính phủ, mà còn thể hiện tính nhân văn của chính sách, với phương châm “Không để ai bị bỏ lại phía sau” trong đại dịch.
Đồng thời, giải pháp hỗ trợ không chỉ mang tính cấp thiết trong hiện tại mà còn giúp người lao động và doanh nghiệp có sự chuẩn bị cần thiết để tiếp tục tham gia thị trường lao động. Theo đó, Chính phủ đã ban hành chính sách cho vay trả lương ngừng việc và cho vay trả lương phục hồi sản xuất. Đây là biện pháp góp phần giúp doanh nghiệp được vay ngân hàng với lãi suất ưu đãi để trả lương cho người phải ngừng việc và hỗ trợ vốn tín dụng khi quay lại sản xuất kinh doanh. Nghị quyết 68 cũng đưa ra chính sách hỗ trợ đào tạo duy trì việc làm cho người lao động với mức hỗ trợ tối đa là 1,5 triệu đồng/ người lao động/tháng và thời gian hỗ trợ tối đa 6 tháng.
Có thể nói, các chính sách rất thiết thực và phù hợp nêu trên không chỉ giúp người lao động và doanh nghiệp có thêm nguồn lực để chống đỡ dịch bệnh mà quan trọng hơn là sự hỗ trợ cần thiết để họ tiếp tục sản xuất kinh doanh, đủ sức tự đứng vững vượt qua tác động tiêu cực của dịch bệnh.
Tiếp tục kiểm soát lạm phát
Quan điểm của Tổng cục Thống kê về kiểm soát lạm phát trong năm 2022?
Bà Nguyễn Thị Hương: Năm 2021, trong bối cảnh áp lực lạm phát toàn cầu ngày càng tăng cao, giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất, giá cước vận chuyển liên tục tăng nhưng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2021 của Việt Nam chỉ tăng 1,84% so với năm trước, thấp nhất trong 6 năm qua, đạt mục tiêu Quốc hội đề ra. Để đạt được kết quả này trong khi đất nước đang hết sức khó khăn bởi tác động của dịch COVID-19 là nhờ sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, các ngành, các cấp đã tích cực triển khai thực hiện những giải pháp đồng bộ để ngăn chặn dịch bệnh và ổn định giá cả thị trường.
Tuy nhiên, bước sang năm 2022, chúng tôi đánh giá áp lực lạm phát là rất lớn. Khi dịch COVID-19 được kiểm soát trong năm 2022, nhu cầu sản xuất và tiêu dùng tăng lên, lạm phát sẽ chịu tác động của vấn đề tăng giá nguyên nhiên vật liệu trên thế giới như xăng dầu, than và giá cước vận chuyển. Việc nhập khẩu nguyên liệu với mức giá cao sẽ ảnh hưởng đến chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm, từ đó đẩy giá hàng hóa tiêu dùng trong nước lên cao, tạo áp lực cho lạm phát. Bên cạnh đó, giá nhập khẩu thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi tăng sẽ tác động vào giá thực phẩm. Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở được tính trong CPI cũng sẽ tăng theo giá nguyên liệu dùng trong xây dựng. Giá dịch vụ giáo dục tăng trở lại do một số địa phương kết thúc thời gian được miễn, giảm học phí năm học 2021-2022 và ảnh hưởng của việc thực hiện lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ giáo dục theo Nghị định 81/2021/NĐ-CP quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập, giá dịch vụ giáo dục trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Ngoài ra, khi dịch COVID-19 được kiểm soát, nhu cầu dịch vụ ăn uống ngoài gia đình, dịch vụ du lịch, vui chơi, giải trí tăng trở lại cũng tác động không nhỏ tới CPI chung.
Xin cảm ơn Tổng cục trưởng!