MỘT SỐ THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ HỘI VIỆT NAM - NHẬT BẢN

Hội hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản hiện tại có 77 hội viên.
Ban Chấp hành Hội nhiệm kỳ 2017-2022 như sau:
 
STT Họ và tên Năm sinh Chức vụ hiện tại Nơi cư trú Trình độ Chức vụ trong BCH
Văn hóa Chuyên môn
1 Nguyễn Duy Cần 1962 Trưởng khoa Phát triển Nông thôn Ninh Kiều - TP. Cần Thơ 12/12 PGS.TS Chủ tịch
2 Lê Văn Đời 1959 Phó giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Hậu Giang P.3 -  TPVT -  Hậu Giang 12/12 Kỹ sư Nông học Phó Chủ tịch
3 Nguyễn Ngọc Đệ 1956 Phó Trưởng khoa Phát triển Nông thôn Ninh Kiều - TP. Cần Thơ 12/12 PGS.TS Phó Chủ tịch
4 Võ Xuân Tân 1981 Giám Đốc trung tâm khuyến nông tỉnh Hậu Giang P.5 - TPVT -  Hậu Giang 12/12 Th/S. Khoa học cây trồng TB.Kiểm tra
5 Lê Hoàng Xuyên 1981 Giám Đốc Khu Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tỉnh An Bình - TP.Cần Thơ 12/12 TS. Công Nghệ sinh học Ủy viên
6 Phan Quốc Thứ 1979 Giám đốc trung tâm giống tỉnh Hậu Giang Cái Răng - Cần Thơ 12/12 Th/S. QTKD Ủy viên

I. THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ NHẬT BẢN:
1. Địa lý: Nhật Bản là quần đảo nằm ở Tây Bắc lòng chảo Thái Bình Dương, ngoài khơi phía Đông lục địa châu Á, trải theo một vòng cung hẹp dài 3.800km. Gồm 6.852 hòn đảo lớn nhỏ, tổng diện tích là 377.944km2, với 4 đảo lớn nhất, chiếm 97% diện tích, là Hokkaido, Honshu, Shikoku và Kyushu. 73% diện tích đất là đồi núi và rừng rậm. Hiện còn 108 núi lửa đang hoạt động.  
2. Dân số: Dân số: 127,1 triệu, giảm liên tục từ năm 2011 đến nay ( Nguồn: Báo cáo Điều tra tình hình quốc gia năm 2015). 98,5% dân số là thuần Nhật, phần còn lại là dân tộc thiểu số (Ainu ở phía Bắc) và người nước ngoài. Tuổi thọ trung bình là 83,5 cao nhất thế giới. Nhật Bản đang đối mặt với nguy cơ sụt giảm dân số, dự báo là 95 triệu đến 2050, chủ yếu do tỷ lệ sinh mới thấp. Chính phủ Nhật Bản đang từng bước nới lỏng các quy định nhập cư và công nhận quốc tịch tự nhiên nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động này.
3. Lịch sử: Lịch sử Nhật Bản đi qua thời cổ đại và phong kiến, hình thành phân chia giai cấp và các nhà nước nhỏ. Thủ đô đầu tiên của Nhật Bản là Nara vào đầu thế kỷ thứ 8 và tồn tại hơn 70 năm (từ 710 đến 784). Năm 794, Thủ đô mới được chuyển tới Kyoto, mở ra thời kỳ Heian với những phát triển vượt bậc trong văn học nghệ thuật. Năm 1603, Tướng quân Tokugawa Ieyasu lập ra Chính phủ quân sự ở Edo (sau gọi là Tokyo). Đây là 1 bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Nhật Bản, tạo ra khuôn mẫu thể chế chính trị xã hội duy trì trong suốt 265 năm với những biện pháp quyết liệt như đóng cửa với thế giới bên ngoài, rồi sụp đổ năm 1867 và Hoàng đế được khôi phục đầy đủ quyền lực trong cuộc phục hưng Minh Trị (1868-1912) - là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử Nhật Bản. Sau Chiến tranh thế giới II, Nhật Bản đặt dưới sự kiểm soát của Mỹ từ 1945~1951. Năm 1951, Nhật Bản ký Hiệp ước Hoà bình San Francisco; song song với phục hồi kinh tế, Nhật Bản dần khôi phục vị thế quốc tế, trở thành thành viên tích cực trong các diễn đàn kinh tế, chính trị, xã hội quốc tế.
4. Chế độ chính trị: Theo Hiến pháp năm 1947, Nhật Bản theo thể chế quân chủ lập hiến kiểu Anh, trong đó: 
+ Nhà Vua Nhật Bản Akihito là Nguyên thủ tượng trưng về mặt đối ngoại.
+ Nhà nước được tổ chức theo chế độ tam quyền phân lập.
+ Chính phủ hiện nay là chính phủ liên minh giữa Đảng Dân chủ Tự do (LDP) và Đảng Công Minh (Komeito).
 5. Một số lãnh đạo chủ chốt:
- Thủ tướng: Shinzo Abe (Sin-dô A-bê) (Đảng Dân chủ Tự do), từ ngày 26/12/2012 và bắt đầu nhiệm kỳ II từ 24/12/2014 (nhiệm kỳ I từ tháng 9/2006 đến 9/2007).
- Chủ tịch Hạ viện: Tadamori Oshima (Đảng Dân chủ tự do), từ 21/4/2015.
- Chủ tịch Thượng viện: Chuichi Date (Đảng Dân chủ Tự do), từ 8/2016.
- Ngoại trưởng: Kishida Fumio (Ki-si-đa Phư-mi-ô) (Đảng Dân chủ Tự do), từ ngày 26/12/2012.
6. Thông tin khác:
- Đơn vị tiền tệ: Yên;
- GDP thực năm 2015: 528,6 nghìn tỷ Yên (tương đương 5 nghìn tỷ USD) (Nguồn: Tổng cục thống kê Nhật Bản) 
- Dự trữ ngoại tệ đến tháng 5/2015: 1.245,75 tỷ USD (Nguồn: Bộ Tài chính Nhật).
II. TÌNH HÌNH NHẬT BẢN:
1. Chính trị nội bộ
- Nhật Bản theo hệ thống chính trị đa đảng phái, trong đó Đảng Dân chủ tự do (LDP) là đảng chính trị lớn nhất và cầm quyền gần như liên tục trong giai đoạn 1955-2009. Từ năm 2009-2012, đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) lên cầm quyền thay đảng LDP. Từ 12/2012, Đảng Dân chủ Tự do trở lại nắm quyền và từ tháng 7/2013 giành quyền kiểm soát được cả hai Viện trong Quốc hội.
- Quốc hội Nhật Bản hiện nay bao gồm các nghị sỹ thuộc 10 đảng phái khác nhau, trong đó 2 đảng lớn nhất là LDP và DPJ. Tuy nhiên tháng 3/2016, hai đảng Dân chủ và Duy Tân sáp nhập thành đảng “Dân Tiến” (The Democratic Party: DP), trở thành đảng đối lập lớn nhất. 
- Tháng 12/2014, ông Abe đã giải tán Hạ viện tiến hành bầu cử sớm. Liên minh Đảng LDP và Công Minh giành thắng lợi lớn, giúp kéo dài khả năng nắm quyền của Liên minh này đến năm 2018 (nếu không có gì bất thường). Nhật Bản vừa bầu cử Thượng viện vào tháng 7/2016.
- Số lượng ghế các Đảng nắm giữ hiện nay:
+ Tại Hạ viện (kết quả cuộc bầu cử 14/12/2014): LDP 291/475 ghế, Công Minh 35/475, DPJ 73/475, Duy Tân 41/475 (sau khi sáp nhập tháng 3/2016, Đảng Dân tiến 92 ghế), Cộng sản 21/475… Trong đó, Liên minh cầm quyền LDP-Công Minh chiếm 326/475 ghế, hơn 2/3 số ghế tại Hạ viện. 
+ Tại Thượng viện: LDP 120/242 ghế, Công Minh 25/242, Dân tiến 49/242, Hội Duy Tân Osaka 12/242, Cộng sản 14/242, Đảng Xã hội dân chủ 2/242… Trong đó, Liên minh cầm quyền LDP-Công Minh chiếm 145/242 ghế, quá bán tại Thượng viện. 
- Thủ tướng hiện nay là ông Shinzo Abe, Chủ tịch Đảng Dân chủ tự do. Ông Abe tái đắc cử chức Chủ tịch Đảng LDP đầu tháng 9/2015, sẽ tiếp tục nhiệm kỳ Chủ tịch đảng đến cuối tháng 9/2018 (nếu không có gì bất thường). 
2. Kinh tế: 
Là quốc gia nghèo tài nguyên, dân số đông, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh thế giới thứ 2. Sau chiến tranh, kinh tế Nhật Bản trải qua các giai đoạn: nhanh chóng phục hồi (1945-1954), phát triển cao độ (1955-1973), tăng trưởng chậm lại (1974-1990) và trì trệ (từ 1991 đến nay). Hiện tại, tuy tiếp tục có nhiều vấn đề nan giải song Nhật Bản vẫn là cường quốc kinh tế thứ 3 thế giới.
Sau khi lên nắm quyền (12/2012), Thủ tướng Abe đã triển khai mạnh mẽ Chính sách kinh tế mới Abenomics giai đoạn 1 gồm 3 “mũi tên”: (i) Chính sách tiền tệ mạnh dạn; (ii) Chính sách tài chính cơ động; (iii) xây dựng Chiến lược tăng trưởng mới. Đến nay, Chính sách kinh tế Abenomics bước đầu phát huy hiệu quả tích cực song kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn và tiềm ẩn nhiều rủi ro trung hạn. Tháng 9/2015, Thủ tướng Abe đưa ra Chính sách Abenomics giai đoạn 2 với 3 mũi tên mới là: “phát triển kinh tế”, “hỗ trợ chăm sóc trẻ em” và “đảm bảo an sinh xã hội”, trong đó phấn đấu 3 mục tiêu GDP năm 2020 đạt 600 nghìn tỷ yên, nâng tỷ lệ sinh con lên 1,8 (duy trì dân số mức 100 triệu người sau 50 năm), giảm tỷ lệ người lao động phải nghỉ việc vì chăm sóc người già xuống 0%... GDP thực và GDP danh nghĩa năm 2015 tăng lần lượt là 0,5% và 2,5% so với năm 2014. Thời gian tới, kinh tế Nhật Bản vẫn cần giải quyết nhiều vấn đề như thâm hụt thương mại kéo dài (năm 2015 thâm hụt 2.832,2 tỷ yên, 5 năm liên tiếp), nợ công cao (233,8% GDP, đứng đầu các nước trên thế giới), già hóa dân số, hỗ trợ nông nghiệp sau khi gia nhập Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP)... Nhật Bản đang thúc đẩy tái khởi động lại các nhà máy điện hạt nhân đã bị ngừng hoạt động sau thảm họa động đất sóng thần 11/3/2011. Tác động của việc đồng yên giảm giá khiến số khách du lịch nước ngoài đến Nhật Bản tiếp tục tăng mạnh (năm 2015 đạt 19.734.400 lượt khách, cao nhất từ trước đến nay). 
3. Ngoại giao
Từ khi trở lại nắm quyền tháng 12/2012, Chính quyền Thủ tướng Shinzo Abe triển khai chính sách đối ngoại với 3 trụ cột: (i) Tăng cường quan hệ Nhật-Mỹ; (ii) Cải thiện quan hệ với các nước láng giềng; (iii) Ngoại giao phục vụ kinh tế.
Với phương châm “Quốc gia hòa bình” làm nền tảng, Nhật Bản tích cực triển khai “Ngoại giao toàn cầu” dưới ngọn cờ “Chủ nghĩa hòa bình tích cực”, nhằm đảm bảo 3 lợi ích: (i) Lợi ích về an ninh, đó là tăng cường năng lực, vai trò của Nhật Bản, nâng cao tính răn đe của thể chế An ninh Nhật-Mỹ, tăng cường quan hệ tin cậy, hợp tác với các đối tác trong và ngoài khu vực Châu Á - Thái Bình Dương; (ii) Lợi ích chiến lược thông qua việc sử dụng ODA nhằm thúc đẩy “Chủ nghĩa hòa bình tích cực” ; (iii) Lợi ích kinh tế, thông qua việc tăng cường quan hệ Ngoại giao với tất cả các khu vực, tham gia vào tất cả các thể chế kinh tế quốc tế và khu vực quan trọng.
Trên cơ sở đó, Nhật Bản tập trung ưu tiên: (i) Củng cố đẩy mạnh quan hệ đồng minh với Mỹ để bảo vệ lợi ích quốc gia, coi đây là trụ cột số một của ngoại giao Nhật Bản. Đẩy mạnh quan hệ nhiều mặt với các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương, coi hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển tại khu vực này là yếu tố đảm bảo cho sự ổn định về mặt an ninh, chính trị và thúc đẩy hồi phục kinh tế của Nhật Bản. Trong đó, chú trọng cải thiện quan hệ với các nước láng giềng như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nga, tăng cường hợp tác với ASEAN, Úc và Ấn Độ, sử dụng phương châm “đối thoại và gây áp lực” với Triều Tiên để để giải quyết các vấn đề bắt cóc, hạt nhân và tên lửa; (ii) Góp phần vào các vấn đề toàn cầu, tiếp tục giúp đỡ giải quyết những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, cải cách Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, giải trừ và không phổ biến vũ khí hạt nhân, giảm nhẹ thiên tai, và trao quyền cho phụ nữ…; (iii) Coi trọng các nguyên tắc của luật pháp, dân chủ và quyền con người cơ bản.
III. QUAN HỆ VIỆT NAM - NHẬT BẢN:
1. Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao:  21/09/1973
- Sau năm 1975, hai bên trao đổi Đại sứ quán.
- Giai đoạn 1979-1990: Do vấn đề Campuchia, Nhật Bản đông kết các khoản viện trợ đã thỏa thuận. Quan hệ chính trị rất hạn chế.
-  Năm 1992, Nhật Bản quyết định mở lại viện trợ cho Việt Nam. Từ đó đến nay, các mối quan hệ kinh tế, chính trị, giao lưu văn hoá… được mở rộng; sự hiểu biết và tin cậy giữa hai nước từng bước được tăng lên. 
- Trong những năm gần đây, quan hệ Việt Nam và Nhật Bản phát triển nhanh chóng. Nhật Bản là nước G-7 đầu tiên đón Tổng Bí thư Việt Nam đi thăm (năm 1995), nước G-7 đầu tiên thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược với Việt Nam (năm 2009), nước G-7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (năm 2011),  nước G-7 đầu tiên mời Việt Nam tham dự Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng (5/2016).
2. Khuôn khổ và một số mốc quan trọng trong quan hệ hai nước: Từ năm 2002 đến nay, quan hệ hai nước không ngừng được củng cố và phát triển, cụ thể như sau:
- Năm 2002, nhân chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản Koizumi 4/2002, hai nước đã thiết lập quan hệ “Đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”.
- Năm 2004 hai bên xác định “Vươn tới tầm cao mới của quan hệ đối tác bền vững” (Tuyên bố chung cấp Ngoại trưởng tháng 7/2004).
- Năm 2006, nhân chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe 11/2006, Thủ tướng hai nước ra Tuyên bố chung về “Hướng tới đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở Châu Á”.
- Năm 2007, nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Nhật Bản của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tháng 11/2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Thủ tướng Yasuo Fukuda đã ký Tuyên bố chung về việc “Làm sâu sắc hơn quan hệ Việt Nam và Nhật Bản” và “Chương trình hợp tác hướng tới quan hệ đối tác chiến lược”.
- Năm 2009, nhân chuyến thăm chính thức Nhật Bản của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (4/2009), Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Thủ tướng Aso Taro đã ký Tuyên bố chung về "Quan hệ đối tác chiến lược vì hoà bình và phồn vinh ở Châu Á", nhất trí đưa quan hệ hai nước lên tầm đối tác chiến lược. 
- Năm 2010, nhân chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan (tháng 10/2010), Thủ tướng hai nước ký “Tuyên bố chung Việt Nam-Nhật Bản về phát triển toàn diện quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở Châu Á”. 
- Năm 2011, trong chuyến thăm Nhật Bản tháng 10/2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Nhật Bản Noda đã ký "Tuyên bố chung triển khai hành động trong khuôn khổ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở Châu Á giữa Việt Nam và Nhật Bản".
- Năm 2014, trong chuyến thăm cấp nhà nước Nhật Bản tháng 3/2014, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã ký “Tuyên bố chung Việt Nam-Nhật Bản về thiết lập quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và thịnh vượng ở châu Á”. 
- Năm 2015, trong chuyến thăm chính thức Nhật Bản tháng 9/2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã ra “Tuyên bố về tầm nhìn chung quan hệ Việt Nam - Nhật Bản”. 
3. Về quan hệ chính trị: Quan hệ giữa hai nước đang ở giai đoạn tốt nhất trong lịch sử kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao, có sự tin cậy cao. Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì thường xuyên các chuyến thăm và tiếp xúc tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, cụ thể như sau:
Lãnh đạo Nhật Bản thăm Việt Nam: Thủ tướng Nhật Bản thăm Việt Nam 8 lần (Murayama 8/1994, Hashimoto 1/1997, Obuchi 12/1998, Koizumi 4/2002 và 10/2005 nhân dự cấp cao ASEM 5, Shinzo Abe 11/2006 và 1/2013 (chọn thăm Việt Nam đầu tiên sau khi nhậm chức), Naoto Kan 10/2010); Hoàng tử Nhật Bản Akishino thăm chính thức Việt Nam tháng 6/1999 và thăm với tư cách cá nhân tháng 8/2012; Hoàng Thái tử Nhật Bản thăm chính thức Việt Nam tháng 2/2009. Ta đã nhiều lần mời Nhà Vua và thành viên Hoàng gia Nhật Bản thăm Việt Nam.
Lãnh đạo Việt Nam thăm Nhật Bản: Tổng Bí thư Đỗ Mười thăm chính thức tháng 4/1995 (Nhật Bản là nước đầu tiên trong các nước G-7, Tổng Bí thư thăm chính thức); Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm chính thức tháng 10/2002, 4/2009; Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức 9/2015; Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết thăm cấp nhà nước tháng 11/2007; Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm cấp nhà nước tháng 3/2014; Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm chính thức tháng 4/1993; Thủ tướng Phan Văn Khải thăm chính thức tháng 4/1999 và sau đó thăm làm việc tháng 6/2001, 4/2003, 12/2003, 6/2004 và ghé thăm Nhật tháng 7/2005; Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm chính thức tháng 10/2006 và 10/2011, thăm chính thức và dự Hội nghị Cấp cao Kỷ niệm 40 năm Quan hệ Đối thoại ASEAN-Nhật Bản, Mê Công-Nhật Bản tháng 12/2013, thăm làm việc tháng 5/2009, dự Hội nghị cấp cao Mê Công-Nhật Bản 11/2009, 4/2012 và 7/2015; Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm Nhật Bản và tham dự Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng tại Nhật Bản (5/2016). Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức 3/2008, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thăm chính thức 12/2012.
- Một số cơ chế đối thoại giữa hai nước: Ủy ban Hợp tác Việt-Nhật do hai Bộ trưởng Ngoại giao làm đồng Chủ tịch (từ năm 2007); Đối thoại Đối tác chiến lược Việt Nam-Nhật Bản về ngoại giao-an ninh-quốc phòng cấp Thứ trưởng ngoại giao (từ năm 2010); Đối thoại chính sách quốc phòng Việt-Nhật cấp Thứ trưởng (từ tháng 11/2012); Đối thoại An ninh cấp Thứ trưởng (từ tháng 11/2013).
- Hai nước hợp tác chặt chẽ và ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, Hội đồng nhân quyền... Việt Nam ủng hộ Nhật Bản vào Ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (2016-2017).
- Về vấn đề Biển Đông, Nhật Bản khẳng định cần đảm bảo an ninh, an toàn và tự do hàng hải, hàng không tại Biển Đông; ủng hộ quan điểm các tranh chấp tại Biển Đông cần được giải quyết một cách hòa bình, không sử dụng vũ lực, trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982, tuân thủ DOC và sớm xây dựng COC ; phản đối các hành động đơn phương nhằm thay đổi nguyên trạng ở Biển Đông.  
 4. Hợp tác về kinh tế: Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là nước G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (tháng 10/2011). 
Đến nay, Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, nhà đầu tư số 2 tại Việt Nam, đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam (năm 2015).
Hai bên đã ký Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (tháng 12/2004), Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA) (tháng 10/2009)... tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho phát triển quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước; cùng là thành viên của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và đang cùng tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Hiện tại, Nhật Bản đang tích cực hỗ trợ ta phát triển công nghiệp trong khuôn khổ Chiến lược công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản đến năm 2020 tầm nhìn 2030. 
Về thương mại: Hai nước đã dành cho nhau thuế suất tối huệ quốc từ năm 1999. 
Năm 2015, Nhật Bản là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam, kim ngạch thương mại hai chiều đạt 28,526 tỷ USD (tăng 3,3% so với năm 2014), trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 14,1 tỷ USD (giảm 4%), nhập khẩu đạt 14,426 tỷ USD (tăng 11,6%). Nguyên nhân xuất khẩu sang Nhật giảm do sự sụt giảm giá của nhóm nhiên liệu khoáng sản, đặc biệt là dầu thô (Nguồn: Bộ Công Thương Việt Nam).
11 tháng đầu năm 2016, kim ngạch thương mại hai nước đạt 26,8 tỷ USD, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 13,21 tỷ USD (tăng 2,7% so với cùng kỳ 2015), nhập khẩu đạt 13,6 tỷ USD (tăng 3,3%) (Nguồn: Bộ Công thương).
Về đầu tư trực tiếp: 
Lũy kế tính đến ngày 20/11/2016, Nhật Bản có 3.242 dự án FDI còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký 42,016 tỷ USD, đứng 2 trong tổng số 112 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam (sau Hàn Quốc). 
11 tháng đầu năm 2016, Nhật Bản có 296 dự án cấp mới, 195 dự án tăng vốn với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,95 tỷ USD, đứng thứ 3 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam (Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài).
Hai bên hoàn thành báo cáo kết thúc Sáng kiến chung Việt-Nhật giai đoạn 5 và bắt đầu triển khai giai đoạn 6 từ tháng 8/2016.
Về viện trợ phát triển chính thức ODA: 
Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, chiếm khoảng 30% tổng cam kết ODA của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam. Từ năm 1992 đến hết tài khóa 2015 (31/3/2016), Nhật Bản đã cam kết khoảng 29,5 tỷ USD (theo tỷ giá hiện nay) vốn vay ODA cho Việt Nam. 
Trong năm tài khóa 2015, Nhật Bản cam kết vốn vay ODA cho Việt Nam hơn 310,08 tỷ Yên (khoảng 2,5 tỷ USD), mức cao nhất từ trước đến nay. Giải ngân ODA của Việt Nam (không kể các khoản vay chương trình hỗ trợ ngân sách) đạt 22%, tương đương 147 tỷ Yên, đứng thứ 2 (sau Ấn Độ) trong số các nước sử dụng ODA vốn vay Nhật Bản.
5. Hợp tác trên các lĩnh vực khác:
- Hợp tác nông nghiệp có bước đột phá từ năm 2014 trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Nhật Bản của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Hai bên đã ký kết "Tầm nhìn trung và dài hạn trong hợp tác Nông nghiệp Việt Nam - Nhật Bản" nhân chuyến thăm chính thức Nhật Bản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (9/2015).
- Hợp tác ứng phó với biến đổi khí hậu: phát triển mạnh mẽ, thực chất với việc Nhật Bản liên tục cung cấp ODA những năm gần đây cho các dự án ứng phó với biến đổi khí hậu của Việt Nam. Trong chuyến thăm Nhật Bản và tham dự Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Abe đã công bố hỗ trợ khẩn cấp không hoàn lại 2,5 triệu USD để ứng phó với tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn và cho biết Nhật Bản sẽ nghiên cứu hỗ trợ Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu trong trung và dài hạn. 
- Về hợp tác lao động: Từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã cử nhiều tu nghiệp sinh sang Nhật Bản. Hiện có khoảng hơn 45.000 lao động, thực tập sinh Việt Nam tại Nhật Bản trong các lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. Hai bên đã ký Bản ghi nhớ về việc Nhật Bản tiếp nhận điều dưỡng viên, hộ lý của Việt Nam (trong khuôn khổ Hiệp định đối tác kinh tế song phương EPA tháng 10/2011), đợt đầu tiên gồm 138 y tá và điều dưỡng viên, đợt 2 (tháng 5/2015) gồm 137 người đã sang Nhật Bản.
- Hợp tác giáo dục: Quan hệ hợp tác về giáo dục và đào tạo giữa hai nước đã phát triển dưới nhiều hình thức, Nhật Bản là một trong những nước viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho ngành giáo dục đào tạo của Việt Nam. Hai bên đã ký kết nhiều văn kiện hợp tác trong lĩnh vực này . Số lưu học sinh Việt Nam tại Nhật Bản hiện nay là 38.882 người (đến 4/2016). Nhật Bản đang hợp tác để nâng cấp 04 trường đại học của Việt Nam đạt đại học chất lượng cao (Đại học Cần Thơ, Đại học Đà Nẵng, Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học Nông nghiệp Hà Nội); đang hợp tác xây dựng Trường Đại học Việt-Nhật nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam trong lĩnh vực khoa học công nghệ, quản lý và dịch vụ; hỗ trợ Việt Nam dạy tiếng Nhật tại một số trường phổ thông cơ sở tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
- Về du lịch: Năm 2015, lượng khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam đạt 671.379 lượt, tăng 3,6% so với năm 2014, đứng thứ 3 (sau Trung Quốc và Hàn Quốc). 11 tháng đầu năm 2016, lượng khách du lịch Nhật Bản vào Việt Nam đạt 676.991 lượt (tăng 10,5% so với cùng kỳ năm 2015) (Nguồn: Tổng Cục du lịch Việt Nam). 
Số khách du lịch Việt Nam vào Nhật Bản năm 2015 là 185.400 người (Nguồn: Tổng Cục du lịch Nhật Bản). 
- Về hợp tác lãnh sự: Theo thống kê của Bộ tư pháp Nhật, đến 12/2015, tại Nhật có 124.820 người Việt Nam; tại Việt Nam có khoảng 13.500 người Nhật Bản . Nhật Bản đã mở Tổng lãnh sự quán tại Tp. Hồ Chí Minh. Phía ta mở Tổng Lãnh sự quán tại Osaka (3/1997) và Fukuoka (4/2009); Tháng 6/2010, bổ nhiệm 2 Tổng Lãnh sự danh dự của Việt Nam tại thành phố Nagoya (tỉnh Aichi) và thành phố Kushiro (Hokkaido).
Từ ngày 1/1/2004, Việt Nam đơn phương miễn thị thực cho người Nhật đi du lịch và kinh doanh vào Việt Nam trong vòng 15 ngày và từ ngày 1/7/2004, quyết định miễn thị thực nhập cảnh ngắn hạn cho mọi công dân mang hộ chiếu Nhật Bản. Ngày 8/3/2005, hai bên đã trao đổi Công hàm miễn thị thực nhập cảnh cho công dân hai nước Việt Nam và Nhật Bản mang Hộ chiếu ngoại giao và công vụ trong thời hạn lưu trú không quá 90 ngày bắt đầu thực hiện từ 1/5/2005.
Nhật Bản bắt đầu thực hiện việc nới lỏng quy chế cấp thị thực nhiều lần (từ ngày 30/9/2014 và nới lỏng hơn từ ngày 15/2/2016) và thị thực một lần (từ 20/11/2014) cho công dân Việt Nam.
 Về hợp tác địa phương hai nước: cũng được thúc đẩy mạnh mẽ, nhiều địa phương của hai nước đã ký văn bản hợp tác như: Hồ Chí Minh-Osaka (2007), Đà Nẵng - Sakai (2009), Hà Nội - Fukuoka (ký lần hai năm 2013), Đà Nẵng - Yokohama (2013), Hồ Chí Minh - Yokohama (2013), Đồng Nai - Hyogo (2013), Bà Rịa - Vũng Tàu - Kawasaki (2013), Phú Thọ - Nara (2014), Huế - Kyoto (2014), Hưng Yên - Kanagawa (2015), Hải Phòng - Niigata (2015), Nam Định - Miyazaki (2015).Tháng 12/2016 (Nguồn Bộ Ngoại giao).
                              
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây